SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Nuôi và ương cá nước ngọt mùa hạn mặn

[19/06/2020 14:00]

Biến đổi khí hậu với hiện tượng điển hình về xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long đang đặt ra vấn đề bức thiết đối với nuôi trồng thủy sản, mà chủ lực là cá tra và tôm nước lợ. Hạn hán, xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long năm 2019-2020 đến sớm và nghiêm trọng hơn lịch sử năm 2015-2016. Trong mấy chục năm gần đây chưa có năm nào hạn mặn lại nặng nề như năm nay. Nguyên nhân có thể do mùa mưa năm trước lượng mưa không nhiều, đồng thời nhiều đập thủy điện được xây dựng ở đầu nguồn sông Mê kông đã ngăn chặn dòng chảy, nắng hạn gay gắt nên tình trạng nước biển lấn sâu vào các tuyến sông nặng nề hơn nhiều so với các năm trước.

Tình hình hạn hán và xâm nhập mặn đang gây ảnh hưởng lớn đến nuôi trồng thủy sản của các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, do thiếu nước ngọt để làm giảm độ mặn, tốc độ xuống giống chậm do người dân lo ngại khi nhiệt độ và độ mặn tăng cao sẽ là cơ hợi dễ phát sinh dịch bệnh và gây thiệt hại.

Từ đầu tháng 2 dương lịch đến nay, độ mặn trên sông Tiền luôn giao động ở mức cao, có nơi đỉnh điểm cao trên 5-6 g/l (‰), kéo dài thời gian 3 tháng gây ảnh hưởng đến sinh trưởng của một số loài cá nước ngọt, nhất là những vùng có nước ngọt quanh năm.

Độ mặn ảnh hưởng đến cân bằng áp suất thẩm thấu tế bào do đó ảnh hưởng đến sự chuyển hóa năng lượng, sinh trưởng của cá. Trong điều kiện nhiễm mặn đột ngột sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá và nếu độ mặn ngưỡng chịu đựng sẽ gây chết cá.

Người nuôi cần nắm rõ khả năng chịu mặn của đối tượng thủy sản mình nuôi. Ví dụ: Nhóm chịu mặn thấp (độ mặn tối đa 3- 4‰) có ếch, lươn…; Nhóm chịu mặn trung bình (độ mặn tối đa 5- 6‰) có trê, rô đồng, tai tượng, tra, sặc rằn, mùi, lăng nha, mè vinh, lóc,...; Nhóm chịu mặn cao (độ mặn tối đa 10‰) như cá điêu hồng, rô phi, tôm càng xanh, bống tượng, chép, trắm cỏ… Tuy nhiên đây là ngưỡng chịu mặn của một số loài cá khi trưởng thành, còn cá bột, cá đẻ sẽ nhạy cảm hơn, chịu đựng thấp hơn thậm chí thích hợp ở độ mặn bằng 0 ‰  .

Thường xuyên theo dõi các thông tin tình hình xâm nhập mặn vào nội đồng trên báo, đài. Đo và kiểm tra độ mặn nước trong ao nuôi thường xuyên. Bổ sung thêm các vitamin, khoáng chất, men tiêu hóa… vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho cá nuôi.

Khi xảy ra hạn mặn, một số giải pháp kỹ thuật được khuyến cáo như sau:

a) Đối với nuôi ao thương phẩm:

* Đối với các ao nuôi thủy sản chưa thả giống

- Thường xuyên kiểm tra độ mặn của nước trên sông hoặc kênh rạch tự nhiên, có kế hoạch chủ động lấy nước khi độ mặn thích hợp vào ao nuôi khi cần thiết . (không chênh lệch độ mặn với ao nuôi nhiều).

- Cần có kế hoạch chủ động lấy nước ngọt vào ao chứa, ao lắng để dự trữ trước khi có xâm nhập mặn xảy ra, đảm bảo kế hoạch sản xuất; đồng thời xây dựng kế hoạch thả giống phù hợp, chỉ thả giống ao nuôi thương phẩm, khi nguồn nước có độ mặn thấp hơn 3 ‰ (theo khuyến cáo của Chi cục thủy sản ….)

* Đối với các ao nuôi thủy sản đã thả giống

- Đối với các ao nuôi thủy sản chưa đạt kích cỡ thương phẩm cần thường xuyên kiểm tra độ mặn trên sông để có kế hoạch thay nước phù hợp, cần thiết sử dụng máy bơm để cấp nước vào ao nuôi khi vào thời điểm nguồn nước có độ mặn thấp (thấp hơn 3‰), đồng thời kết hợp quản lý các yếu tố môi trường ao nuôi chặt chẽ, tăng cường bổ sung dinh dưỡng (các loại vitamin, men tiêu hóa, khoáng chất…) cho thủy sản nuôi để tăng sức đề kháng.

- Chú ý khi độ mặn tăng cao từ 5 ‰ trở lên, nên giảm khẩu phần ăn cho thủy sản nuôi; tăng cường sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm cải thiện chất lượng nước, đáy ao nuôi, hạn chế sử dụng thuốc, hóa chất nhằm tránh việc thay nước thường xuyên.

- Khi độ mặn của nước trên sông tăng cao từ 7 ‰ trở lên và kéo dài từ 07 ngày trở lên cần có kế hoạch di dời thủy sản nuôi đến hệ thống ao nuôi khác có độ mặn phù hợp nhằm giảm thiệt hại có thể xảy ra, trừ những loại cá chịu được độ mặn cao hơn 7‰ (theo khuyến cáo của Chi cục thủy sản).

b) Đối với nuôi bè:

* Đối với các lồng bè nuôi thủy sản chưa thả giống

- Kiểm tra, tu sửa (đối với lồng bè cũ) hệ thống lồng bè thật kỹ, nhằm tránh thất thoát khi thả giống nuôi.

Thường xuyên kiểm tra độ mặn nước trên sông và có kế hoạch thả giống phù hợp. Chỉ thả giống nuôi khi nguồn nước có độ mặn thấp hơn 3‰ .

* Đối với các lồng bè nuôi thủy sản đã thả giống

- Theo dõi chặt chẽ diễn biến môi trường nuôi, nhất là độ mặn để có kế hoạch chăm sóc quản lý phù hợp cho cá nuôi.

- Khi độ mặn tăng cao (từ 7 ‰ trở lên) và kéo dài từ 05 ngày trở lên, tùy theo loài cá nuôi, nên chủ động di dời lồng bè đến vùng nuôi an toàn hoặc chuyển các đối tượng nuôi vào hệ thống các ao đất, vùng nuôi phù hợp, tránh thiệt hại có thể xảy ra.

- Chú ý các đối tượng nuôi đạt kích cỡ thương phẩm, các cơ sở nuôi chủ động thu hoạch ngay (không chờ giá) khi có sự xâm nhập mặn cao để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. 

c) Đối với cá đẻ, ương giống:

- Hạn chế không nên tiến hành sản xuất cá giống nước ngọt trong thời điểm mặn xâm nhập nếu không có nguồn nước ngọt dự trữ do chất lượng trứng và tinh trùng thấp, tỷ lệ trứng nở thấp, hiệu quả ương cá giống không cao. (Khuyến cáo môi trường nước nuôi cá tai tượng, điêu hồng đẻ, thả cá bột nồng độ muối dưới 1‰..)

- Chủ động lấy nước ngọt vào ao chứa để dự trữ, có kế hoạch sản xuất giống phù hợp.

Diễn biến thời tiết phức tạp và có chiều hướng ngày càng khắc nghiệt, vì vậy các hộ nuôi và ương cá nước ngọt cần thay đổi cách sản xuất cho phù hợp với thực tế. Nuôi thủy sản cần một lượng nước lớn nên người nuôi cần phải xây dựng kế hoạch, những kịch bản thời vụ nuôi cho phù hợp. Nếu đối tượng ương nuôi không thích nghi độ mặn thì cần phải cấp nước ngọt vào ao trước khi nước mặn về, lúc có giống thì dùng thuốc xử lý địch hại rồi thả giống…. Nếu không chuẩn bị kịp nguồn nước đã mặn quá mức cho phép thì ngưng thả giống, chờ khi có mưa xuống, độ mặn đã giảm thì mới tiến hành thả giống. Ngoài ra, nếu khu vực nuôi thường xuyên bị nhiễm mặn vào mùa nắng, người nuôi nên chọn đối tượng nuôi có khả năng chịu mặn phù hợp với môi trường nước nhiễm mặn như tôm càng xanh, bống tượng, cá chình… Cần tìm hiểu kỹ thuật nuôi đối tượng mới để tránh rủi ro trong quá trình nuôi sau này.

Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ